Anh hùng Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Tháng 1-1949, Bế Văn Đàn xung phong vào bộ đội, tham gia nhiều chiến dịch.
Trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Bế Văn Đàn được phân công làm liên lạc tiểu đoàn - Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây ngăn quân Pháp ở Mường Pồn. Cuộc chiến đấu tại thời điểm đó diễn ra ngày càng căng thẳng và quyết liệt. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, anh đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ, dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc xuống đại đội truyền đạt mệnh lệnh:“Bằng mọi giá phải giữ chân địch để đơn vị lớn triển khai lực lượng được kịp thời chu đáo”. Trận đấu ngày càng diễn ra ác liệt hơn, anh được lệnh ở lại đại đội chiến đấu cùng đồng đội.
Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội quân ta bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, anh không ngần ngại chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn nói: “Kẻ thù trước mặt, bắn chết chúng nó đi, trả thù cho đồng đội”. Pù nghiến răng nổ súng quật ngã hàng chục tên, địch hốt hoảng bỏ chạy, đợt phản kích của chúng bị bẻ gãy.
Ta tiếp tục giữ vững trận địa chiến đấu. Nhưng trong thời gian đứng làm giá súng Bế Văn Đàn bị 2 vết thương nữa và anh đã hy sinh khi hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của Bế Văn Đàn đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập công, góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.